Lịch sử Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội

Sau khi lãnh tụ Phan Bội Châu bị bắt và quản thúc tại Huế tháng 5 năm 1925, tổ chức Việt Nam Quang phục Hội hầu như tan rã thành các nhóm hoạt động riêng rẽ. Một bộ phận hình thành nên tổ chức Tâm Tâm Xã, sau đó chuyển thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.

Mãi đến giữa thập niên 1930, với sự giúp đỡ của Matsui Iwane, một tướng lĩnh cao cấp Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Hoàng thân Cường Để nhiều lần từ Nhật Bản sang Trung Quốc để liên lạc lại với các nhóm Quang phục Hội, nhằm tái lập lại tổ chức. Từ năm 1936, tổ chức hoạt động trở lại với tên Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (chữ Nho: 越南獨立運動同盟會) đến năm 1938 thì mật thám Pháp ở Nam Kỳ phát hiện sự hoạt động của Hội dưới tên Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội.[1] Tuy nhiên mãi đến ngày 12 tháng 3 năm 1939Thượng Hải, Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và sự ủng hộ của Nhật Bản Hội mới chính thức ra mắt. Tổ chức này phát triển mạnh ở Nam Kỳ, nhất là trong cộng đồng Cao Đài nên một vị chức sắc Cao Đài là Trần Quang Vinh được bầu là phó hội trưởng. Những tên tuổi khác tham gia trong Hội là Trần Phúc An (Trần Hy Thánh), Hoàng Lương (Đỗ Văn Tuân), Đoàn Kiểm Điểm.[2] Ban Chấp hành Trung ương của Hội có:[3]

Hoàng Nam Hùng được bổ nhiệm tập hợp nhân sự ở Trung Hoa; Mai Văn Thông ở Xiêm; Trần Quang Vinh và Trần Văn ÂnNam Kỳ; Ngô Đình Diệm và Phan Thúc Ngô ở Trung Kỳ; Dương Bá Trạc, Nguyễn Xuân Chữ và Lê Toàn ở Bắc Kỳ.[4]

Đánh Lạng Sơn

Ngoài cơ quan chính trị, Phục quốc Hội còn có lực lượng vũ trang dưới tên Việt Nam Kiến quốc Quân (chữ Nho: 越南建國軍) do Trần Trung Lập làm tổng tư lệnh. Chính lực lượng khoảng 500 quân này đã theo Sư đoàn 5 (Dai-go Shidai) của Quân đội Đế quốc Nhật Bản tiến chiếm Lạng Sơn vào tháng 9 năm 1940 để áp lực Pháp ngưng chuyển vận quân nhu cho chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới ThạchTrùng Khánh. Khí giới bắt được từ quân Pháp được phát cho quân Việt và quân số của Kiến quốc Quân tăng lên hơn 1.500 quân. Ở Đồng Đăng Kiến quốc Quân thành lập chính phủ lâm thời Việt Nam.[5]

Sau đó ngày 25 tháng 9 năm 1940, Pháp và Nhật điều đình rồi tuyên bố hưu chiến; Nhật thả tù binh Pháp (1052 lính)[6] và cuộc thương lượng sau giàn xếp để Nhật rút khỏi Lạng Sơn vào tháng 10 nhưng Trần Trung Lập thì quyết tử thủ.[5] Công sứ Paul Chauvet được Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux phái lên Lạng Sơn mở cuộc càn quét và chủ tọa Hội đồng đề hình xét xử những người bị bắt.[7] Sau hai tháng giao chiến Trần Trung Lập bị Pháp bắt ở rừng Đồng Nai, xã Khôn Duy, tổng Thuốc Sơn, châu Hữu Lũng, tỉnh Bắc Giang[8] ngày 26 tháng 12 năm 1940 và bị xử bắn ngày 28[9] ở Lạng Sơn. Hai mươi bảy đồng chí khác trong đó có một phụ nữ, vợ của đảng viên Vũ Nhân thì bị xử tử ở đồn Mẹt, xã Chiêu Tuần, tổng Vân Nham, tỉnh Bắc Giang.[10] Đoàn Kiểm Điểm và hàng trăm đồng chí khác cũng bị giết hại.[11] Một số quân do Hoàng Lương và Nông Quốc Long chỉ huy rút được sang Quảng Tây nhưng bị Quân đội Trung Hoa Dân quốc bắt và giải giới vì cho là thân Nhật.